Lựa chọn quốc gia du học - So sánh du học Úc và Mỹ Minh Tâm / 09:00, Thứ Hai, 15 Tháng Bảy 2019 Nội dung chính [ Ẩn đi] 1 Khoảng cách địa lý 2 Hệ thống giáo dục 3 Chi phí du học 4 Cơ hội việc làm và định cư 5 Thủ tục visa du học 6 Môi trường sống, khí hậu Nghĩa của từ sánh trong Tiếng Đức - @sánh- [viscid] klebrig- [viscous] dickflüssig, schwerflüssig, zähflüssig ×. Từ điển Tiếng Việt Anh - Việt Việt - Anh Việt - Nga Việt - Đức Việt - Nhật Việt - Hàn Việt - Pháp 1.000+ cụm từ và mẫu câu thường gặp nhất trong tiếng Anh; Số người này được tuyển chọn qua một kỳ thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Đại Sứ Quán Việt Nam tại Trung Quốc phối hợp tổ chức. Ngoài ra học sinh quốc tế còn có cơ hội apply những học bổng của Trường, của vùng, của những cơ quan tổ chức các nhân. So sánh các chương trình định cư Canada mới nhất 2019 | Kornova-viet.com. Loại visa. Hình thức. Hạn ngạch cấp visa hàng năm. IR-1/CR-1. Vợ chồng của công dân Mỹ. Không giới hạn. IR-2/CR-2. Con ruột/con riêng (độc thân & dưới 21 tuổi) của vợ/chồng công dân Mỹ. Học thạc sĩ của Mỹ tại Việt Nam. Bộ Giáo Dục cấp phép và công nhận văn bằng. Giảm 40% so với học phí gốc tại Mỹ So sánh về chất lượng và chi phí, CSU là lựa chọn tốt nhất. Học phí của CSU luôn hướng đến mục tiêu mang lại một chương trình giáo dục có chất amisđã lựa chọn cho mình một chương trình giáo dục quốc tế và phương pháp giảng dạy khoa học của mỹ, một đội ngũ giáo viên nước ngoài chuyên nghiệp đến từ anh, mỹ, úccùng những giảng viên việt nam được tuyển dụng và đào tạo xuất sắc nhất với mục tiêu mong muốn một thế hệ các em học sinh việt nam có được những định hướng giáo dục khoa học thực … roAmB. “Nếu bạn là cố vấn cao cấp của Tổng thống Harry S. Truman, bạn sẽ tỏ thái độ gì đối với việc Mỹ ném bom nguyên tử?” Câu hỏi này nằm trong đề kiểm tra của học sinh tiểu học tại Mỹ. Có người cho rằng đề bài này nghe có vẻ cao siêu và “quá đà” so với trẻ em tiểu học, lại có ý kiến cho rằng đề này thực tế và lột tả chính xác những tinh túy của nền giáo dục Mỹ. Vậy đâu là câu trả lời?Nhận MIỄN PHÍ Cẩm nang định cư Mỹ EB-510 điều phải biết khi tìm hiểu về chương trình đầu tư định cư Mỹ EB-5 Những con số biết nói Theo thống kê của Forbes năm 2016, cả thế giới có 1,810 tỷ phú, trong đó tỷ phú người Mỹ chiếm đến 93% với con số 1,694 người. Như vậy, cứ trong 10 người giàu nhất thế giới thì có đến 7 người là người Mỹ. Theo một thống kê khác vào năm 2015, nước Mỹ có 589,410 bằng sáng chế, chiếm hơn 20% số bằng sáng chế trên thế giới. Trong nhiều năm, Mỹ luôn nằm trong top đầu những nước có nhiều bằng sáng chế nhất thế giới. Phải thừa nhận rằng, thành quả mà nền giáo dục Mỹ mang đến là quá vượt trội và ấn tượng. Khó trách vì sao Mỹ luôn là môi trường giáo dục được lựa chọn số 1 của nhiều phụ huynh và học sinh quốc tế. Khách quan mà nói, nếu so sánh với Việt Nam thì nền giáo dục của chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều. Đâu là điểm khác biệt giữa hai nền giáo dục Mỹ – Việt? Với câu hỏi trong đề kiểm tra mà chúng ta đã đề cập ở phần mở đầu, đối với học sinh Mỹ, đó là điều rất bình thường và những đứa trẻ ở đây sẵn sàng nói lên ý kiến, cách nhìn và suy nghĩ của mình cho vấn đề đó. Nhưng, nếu đề bài đó được đưa cho học sinh Việt Nam thì sẽ là một sự lạ lùng đáng ngạc nhiên, thậm chí sẽ có bài để giấy trắng. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai nền giáo dục là ở đó. Phương pháp dạy và học Tại Mỹ, các bậc phụ huynh và thầy cô đều khuyến khích trẻ em từ mầm non đến giáo dục phổ thông bày tỏ quan điểm cá nhân của mình trong mọi vấn đề, khuyến khích tính tư duy độc lập, tự làm chủ suy nghĩ, chất vấn, thảo luận, trau đồi khả năng diễn đạt, giao tiếp và tinh thần sáng tạo. Theo tư tưởng “tự do ngôn luận”, các em được chất vấn và phát biểu những gì mình thích hay bức xúc mà không bị chính quyền, nhà trường hay thầy cô cấm đoán hay phạt đình chỉ học. Một điều rất bình thường nữa ở Mỹ là giáo viên vui vẻ cám ơn mỗi khi học sinh chỉ ra điểm sai trong bài giảng, thậm chí học sinh còn được cộng điểm mỗi lần như vậy để khuyến khích tinh thần tự tin phát biểu. Phương pháp giảng dạy tại Mỹ cũng chú trọng hướng dẫn và kích thích sự hứng thú để thúc đẩy học sinh tự tìm tòi, khám phá và rút ra bài học cho mình. Khác với Việt Nam, học sinh phải học ban ngày trên trường tối học thêm theo cách “thầy đọc, trò chép” và làm bài tập về nhà đến mờ mắt… dẫn đến việc học nhiều nhưng không có chất lượng. Phương pháp dạy khá độc đoán này sẽ làm học sinh thường chấp nhận tuyệt đối những kiến thức từ sách giáo khoa và thầy cô, từ đó, làm trẻ mất dần khả năng phản biện, tư duy sáng tạo và giao tiếp. Đây là phương pháp dạy – học hoàn toàn không có ở Mỹ. Phải chăng chúng ta – ngay cả các bậc phụ huynh cũng bị áp lực thi cử, điểm số và bằng cấp đè nặng đến quên mất rằng học sinh, con trẻ cần được nói lên suy nghĩ? Cách trao đổi giữa giáo viên và học sinh Tại Mỹ, mối quan hệ giữa giáo viên – học sinh rất bình đẳng và thân thiện. Học sinh giao tiếp với giáo viên của mình một cách tự do. Từ đó, giáo viên tiếp nhận và đánh giá ý kiến của học sinh mà không hề có bất kỳ thái độ mang tính cá nhân nào. Giáo dục Việt Nam mang đặc trưng của một hệ thống có tính thứ bậc, phân cấp. Giao tiếp giữa giáo viên và học sinh đòi hỏi sự nghiêm túc, cả nể. Sự cởi mở, gần gũi để trao đổi học hỏi giữa thầy – trò còn khá hạn chế. Ai là người chủ động định hướng việc học? Ở Mỹ, học sinh rất chủ động về thời gian học cũng như được phép lựa chọn giáo viên cho mình, lượng bài tập về nhà cao như núi cũng là điều ít khi xảy ra với học sinh. Giống như những nền giáo dục tiên tiến khác như Đức, Pháp, Anh… nền giáo dục Mỹ chú trọng phát triển tư cách và khả năng thiên phú của con người thông qua việc tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa. Theo đó, giáo viên sẽ theo dõi và phát hiện được tố chất của mỗi học sinh để từ đó có đinh hướng tập trung và phát triển tố chất đó. Hoặc, nhà trường và gia đình sẽ tạo điều kiện để học sinh được theo đuổi sở thích, nguyện vọng tương lai. Việt Nam, các bậc cha mẹ hay thầy cô đều nhồi nhét và “làm tư tưởng” cho con em định hướng học các môn theo ý muốn của bố mẹ. Tuy những năm gần đây nước ta đẩy mạnh tổ chức các hoạt động ngoại khóa, nhưng còn hạn chế trong việc phát hiện tố chất và định hướng theo nguyện vọng hoặc sở thích của học sinh. Ví dụ, cha mẹ muốn con lớn lên làm bác sĩ thì nhồi nhét thật nhiều toán, hóa, sinh với những buổi học thêm để đủ “chuẩn bác sĩ”… Các môn phụ như mỹ thuật, lịch sử, địa lý… lại thường ít được coi trọng, do đó, mặc dù các em quan tâm và thích những lĩnh vực này nhưng cũng đành chạy theo sự “xô đẩy” của bố mẹ. Liệu rằng những em bé không thích làm bác sĩ lớn lên sẽ hành nghề nhiệt huyết và có tâm với nghề, với bệnh nhân hay không? Học sinh Mỹ học vì điều đó cần thiết cho tương lai, học sinh Việt Nam học vì điểm. Trường học Mỹ chú trọng đến thành tựu, trường học Việt quan tâm đến thành tích. Bất kì sự so sánh nào cũng sẽ có những khập khiễng vì còn tùy thuộc vào chặng đường lịch sử, mức sống và nền văn hóa mỗi nước nhưng nhìn nhận thực tế để đạt được những ưu điểm trong giáo dục của các nước tiên tiến và đem đến tương lai tốt đẹp hơn cho trẻ em cũng như góp phần làm đẹp hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè thế giới, nền giáo dục nước nhà cần học tập và tiếp thu rất nhiều. Với bức thư dài gần từ gửi Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân thông qua Diễn đàn giáo dục Giáo sư tiến sĩ Trần Văn Hiển, Giảng viên ĐH Houston đã có những phân tích khá sâu sắc về việc giáo dục việt Nam nên học nền giáo dục nước Mỹ ở điểm nào. Trong bức thư, Trần Văn Hiển đặc biệt nhấn mạnh việc đào tạo con người với hai nhóm khả năng quan trọng gồm khả năng tạo tổ chức và khả năng hội nhập thế việc so sánh nền giáo dục hai nước Việt Nam và Mỹ, Hiển cho rằng nền giáo dục Việt Nam không nên cứng nhắc mà cần phải biết học hỏi kinh nghiệm từ những nước có nền giáo dục tiên tiến như Mỹ, Trần Văn Hiển Hiển nhận định, hiện tại Việt Nam là một nước với thu nhập đầu người rất thấp, chưa có những công ty độc lập giàu mạnh ở tầm cỡ thế giới. Điều này cho thấy phương pháp đào tạo con người hiện thời không phát huy những ưu điểm sẵn có của người Việt như cần cù, thông minh, ham học hỏi, ưa tìm tòi sáng tạo để chuyển thành khả năng lãnh đạo, giao tiếp, khả năng chuyên môn cao và khả năng cơ bản – nhất là phong cách con giải quyết hiện trạng này Hiển đã đưa ra nhóm giải pháp và những điều nên học nền giáo dục nước Đào tạo khả năng tạo tổ chức ở cấp phổ thôngChương trình phổ thông của Việt Nam đặt nặng việc hấp thụ thật nhiều kiến thức tổng quát, ít chú trọng đến nâng cao phong cách con người, khả năng giao tiếp và sáng tạo. Học sinh Việt Nam, ngay từ cấp 1, chỉ biết học và học, không có thì giờ vui chơi, tập luyện thể thao, và phát triển những khả năng quan trọng khác như sự chủ động, tự tin, khả năng suy nghĩ độc lập, tìm tòi, khám phá, pháp giảng dạy có nhiều tính cách độc đoán. Học sinh thường chấp nhận tuyệt đối những kiến thức từ thầy cô và từ sách giáo khoa dù đúng hay sai. Học sinh rất ít được tự tìm tòi, suy nghĩ độc lập, chất vấn, thảo luận, phát biểu ý kiến, và khám phá những gì hợp với sở thích của mình. Phương pháp giảng dạy này không giúp học sinh phát triển phong cách con người, khả năng sáng tạo và khả năng giao trình học rất ít linh động vì tất cả mọi học sinh học cùng một chương trình trong cùng một thời gian, không cần biết đến sự khác biệt về sự phát triển về tâm sinh lý của mỗi cá nhân và ở từng lứa tuổi, về hoàn cảnh gia đình, khác biệt về địa phương, Kiến thức tổng quát thường học nhiều về nội địa và dân tộc ít về thế giới, nhiều về quá khứ nhất là thành tích chiến tranh rất ít về tương lai và lòng yêu chuộng hòa bình của người dân , nặng về lý thuyết khoa học nhẹ về ứng dụng. Vì thường học nhồi nhét, học sinh chóng quên những kiến thức không hợp thời cơ, không hợp sở thích và hoàn cảnh cá nhân hay mức độ phát triển về tâm sinh lý của cá trường học thiếu những hoạt động nhóm mà học sinh làm chủ và từ đó không phát huy được khả năng giao tiếp và lãnh năm Việt Nam có trên một triệu học sinh cấp 3 thi vào Đại Học và khoảng 15% đỗ. Những em không vào được đại học bước chân vào đời rất kém về nghề chuyên môn, phong cách con người và khả năng giao tiếp, và gây nên nhiều khó khăn cho nền kinh tế. Nếu Việt Nam muốn có một nền giáo dục cấp tiểu học đến cấp THPT đa dạng thì nên tham khảo một số phương cách từ Hoa Kỳ Chương trình cấp 1-2 của Hoa Kỳ cũng bao gồm kiến thức tổng quát ở trình độ thiếu nhi. Lớp học có chừng 20 – 30 học sinh do đó thầy cô biết rõ từng em một và khuyến khích tự suy nghĩ, chất vấn, phát biểu ý kiến dù đúng hay sai, thuyết trình, và tham gia vào nhiều hoạt động nhóm để phát huy phong cách con người và khả năng giao tiếp từ lúc bé. Chương trình cấp 3 của Hoa Kỳ theo hệ thống tín chỉ, có nhiều môn tự chọn 30% của chương trình , và cho học sinh rất nhiều lựa chọn như khi nào sẽ học một môn, môn nào hợp sở thích và khả năng, trình độ nào học ra làm công nhân, học để vào trường đại học tiểu bang, hay học để có thể được nhận vào Harvard, những môn nào hợp một chuyên ngành ở Đại Học, thậm chí có thể kéo dài hay rút ngắn thời gian ra trường. Chương trình học đầy linh động này thích ứng được với sự khác biệt về thông minh, tài chánh, sự trưởng thành về tâm sinh lý, hoàn cảnh gia đình của mỗi học sinh, và từ đó phát huy được sự đam mê học và khả năng sáng tạo. Học sinh Mỹ được khuyến khích tham khảo, chất vấn, thảo luận và phát biểu những gì mình thích hay bức xúc mà không bị chính quyền, nhà trường hay thầy cô cấm đoán. Trường thường có nhiều hoạt động nhóm do học sinh làm chủ như hiệp hội trong và liên trường. Học sinh tự chọn lãnh đạo của hiệp hội qua tranh cử, và thực tập khả năng giao tiếp và lãnh đạo ở tuổi thiếu niên. Trường St. John Paul II Academy Amerigo Education2. Đào tạo khả năng tạo tổ chức ở cấp Đại họcWorld Economic Forum 2006 xếp hạng giáo dục Đại Học rất thấp, 90/125. Khi so với những nước có những điểm tương đồng như đông dân và nền văn hóa lâu đời, thứ hạng Đại Học của Việt Nam rơi vào 10% chót của thế bại "nặng" nhất của các trường Đại học Việt Nam là đào tạo rất ít sinh viên với khả năng chuyên môn cao thích hợp với đòi hỏi của nền kinh tế toàn như phổ thông, Đại học không giúp sinh viên phát triển được những khả năng quan trọng như giao tiếp, sáng tạo, lãnh đạo và phong cách con người vì chương trình, phương pháp giảng dạy, hệ thống tổ chức và quản lý thiếu tính cách linh hoạt, và không bắt kịp thời năm Việt Nam có chừng 150 ngàn sinh viên ra trường, và chỉ có 5-10% sinh viên giỏi nhất với trình độ tiếng Anh và khả năng giao tiếp cao tìm được việc làm với thu nhập tạm đủ chừng 300 – 500 đô la một tháng từ công ty nước ngoài. 90 – 95% còn lại không có việc làm, hay có việc với thu nhập rất thấp chừng 100 đô la một tháng .Nếu Việt Nam muốn cải cách đào tạo con người ở cấp Đại học thì nên học một số phương cách từ Hoa Hoa Kỳ, cơ quan kiểm định chất lượng độc lập bảo đảm sự cập nhập hóa của chương trình học và trường có đủ khả năng giúp sinh viên đặt được khả năng chuyên môn ở trình độ đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đại Học Mỹ, chọn lãnh đạo trường, và thành viên thường là những người thành đạt ở địa phương. Mỗi chuyên ngành thường được hướng dẫn bởi một hội đồng cố vấn và thành viên là những người thành đạt trong ngành. Những hội đồng này hướng dẫn Đại Học đào tạo khả năng chuyên môn mà xã hội cần như Đại Học nên dạy môn và ngành nào, và dạy ra sao để sinh viên có thể hội nhập nhanh khi ra thống cộng đồng Cao Đẳng, community college của Hoa Kỳ có mặt ở mọi địa phương, và có 3 chương trình đào tạo nghề ngắn hạn từ 3 đến 6 tháng, nghề dài hạn hai năm, và văn hóa để chuyển tiếp Đại Học hai năm. Sinh viên tốt nghiệp Cao Đẳng văn hóa chuyển thẳng vào năm thứ 3 của Đại Học để học chuyên môn ở trình độ cao. Dạy nghề ở nhiều cấp bậc và liên thông giữa Cao Đẳng và Đại Học, tạo cơ hội cho nhiều người đạt được khả năng chuyên môn ở nhiều trình độ khác viên có thể chuyển ngành và trường một cách dễ dàng để học những khả năng chuyên môn phù hợp với sở thích cá nhân và với đòi hỏi mới của xã hội. Sự phù hợp đưa đến đam mê về học, khả năng chuyên môn và sáng tạo cao, và sinh viên chuyển nghành để bắt kịp thay đổi mới của nền kinh giảng dạy ở cấp bậc Đại Học ở Hoa Kỳ thường hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu, làm đồ án, học nhóm, viết luận án ngắn và thuyết trình. Sinh viên được tự do suy nghĩ, chất vấn, thảo luận và phát biểu tất cả những gì mình muốn. Lối giảng dạy này nâng cao sự năng động, tình thần trách nhiệm, khả năng sáng tạo, giao tiếp và lãnh những môn học trong lớp, Đại Học Hoa Kỳ thường có nhiều hoạt động nhóm do sinh viên làm chủ như nhiều hiệp hội trong trường và liên trường. Học sinh tự chọn lãnh đạo của những hiệp hội qua tranh cử. Mô hình tổ chức này giúp sinh viên thực tập và phát huy khả năng giao tiếp và lãnh đạo của Đào tạo khả năng tạo tổ chức trong xã hộiXã hội Hoa Kỳ tạo được một môi trường thích hợp cho sự phát huy những khả năng trừu tượng như phong cách con người, giao tiếp, sáng tạo và lãnh đạo. Dưới đây là một số ví dụ về vai trò của xã hội trong sự đào tạo con người ở Hoa dân học được sự công bằng, đạo đức và thành thật khi tiếp xúc với chính quyền hữu hiệu, minh bạch cao, phục vụ người dân tốt, công bằng với mọi người dân, dân quen với sự thành thật và đạo đức của doanh nghiệp trong đời sống hàng ngày như doanh nghiệp không bán gian khách hàng vì người mua được phép trả lại hàng trong vài tuần đầu nếu không tế thị trường và sự tôn trọng tuyệt đối quyền sở hữu cá nhân khuyến khích con người làm giàu qua sự can đảm đầu tư để mở công ty lớn mạnh như Microsoft, HP, Dell, Anh ngữ như "You" và "I" giúp người trẻ hay thấp vị có nhiều tự tin trong giao tiếp với người lớn tuổi, khác phái, mới quen hay cao hoạt động tôn giáo giúp tín đồ phát huy phong cách con người và khả năng giao tiếp như hoạt động nhóm, thuyết trình và giảng đạo, và thuyết phục người mới vào đạo. Những điều trên cho thấy xây dựng được một đất nước tự do dân chủ, chính quyền minh bạch cao, có nền kinh tế thị trường, người dân có niềm tin cao vào khả năng của chính quyền trong sự tôn trọng tuyệt đối quyền sở hữu cá nhân, và doanh nghiệp hoạt động với tiêu chí thành thật, đạo đức, là một mục đích lâu dài nếu Việt Nam muốn tạo được một môi trường tốt cho mọi người dân tự phát huy những khả năng trừu tượng và từ đó tạo được nhiều tổ chức kinh tế lớn giàu Khả năng hội nhập thế giớiNhóm khả năng hội nhập thế giới gồm có kiến thức trung thực về thế giới và khả năng Anh ngữ cao. Kiến thức trung thực là kiến thức khách quan từ những học giả nổi danh của thế giới và không có vụ lợi hay tham vọng về chính trị hay kinh tế ở Việt Nam, gồm kiến thức về những cơ quan lãnh đạo của thế giới Liên Hiệp Quốc – United Nations, Ngân Hàng Thế Giới – World Bank, Tổ chức thương mại thế giới – WTO, WHO, Vatican, Mecca, thị trường chứng khoán lớn, , kinh tế thế giới, chính quyền của những cường quốc, những nước có tài nguyên Việt Nam cần hay là bạn hàng quan trọng của Việt Nam, những tư tưởng kinh tế chính trị lớn, những nền văn hóa thành công, những sắc tộc đông dân số, những tôn giáo đông tín đồ, những ngôn ngữ nhiều người nói, trình phổ thông và Đại Học của Việt Nam cần có nhiều môn trung thực về thế giới để giúp người Việt có cái nhìn cao rộng, có thể quyết định chính sát là mình nên đi về đâu, và làm sao cạnh tranh được với thế giao tiếp với thế giới, người Việt cần giỏi tiếng Anh, một ngôn ngữ chung của thế Anh phải ở trình độ cao đủ để xã hội có thể dùng được. Nếu không, người học từ từ sẽ quên đi những gì đã học. Ở cấp 3, học sinh giỏi phải giao tiếp được với người nước ngoài, nghe và hiểu được Anh ngữ từ radio và tivi nước ngoài; ở cấp Đại Học, phải nói và viết được tiếng Anh chuyên ngành; và ở cấp cao học, phải thuyết trình được và tranh luận những đề tài chính trong tại Việt Nam là một nước với thu nhập đầu người rất thấp, chưa có những công ty độc lập giàu mạnh ở tầm cỡ quốc tế, và chưa có địa vị cao trên thế giới. Điều này cho thấy khả năng hội nhập thế giới của Việt Nam cần phải được nâng cấp thật nhiều. Song song với việc đào tạo khả năng tạo tổ chức, người Việt cần nâng cấp khả năng tiếng Anh và có sự hiểu biết trung thực về thế giới để chóng tiến lên như Singapore và Hồng Math2IT Hệ thống giáo dục Mỹ được đánh giá là có hệ thống giáo dục bậc nhất thế giới. Bởi vậy, Mỹ luôn được nhiều bạn du học sinh lựa chọn để đi du học. Hãy cùng với Việt Phương so sánh hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam có gì khác biệt không?Theo thống kê của US News & World Report trang Báo cáo Tin tức Hoa kỳ & Thế giới đầu năm 2021, nền giáo dục của Mỹ đứng top 1 trong 73 quốc gia và top 8 trường đại học tốt nhất thế giới. Cứ mỗi năm Mỹ sẽ trích ra khoản 5 – 6% ngân sách trong tổng GDP để chi tiêu cho nền giáo dục, không phải quốc gia nào cũng đầu tư lớn đến nền giáo dục nước nhà. Nền giáo dục ở Mỹ sẽ có những chương trình đào tạo khác với Việt Nam và chú trọng nhiều trong việc rèn luyện hình thành các thói cho các bé trước. Nên bậc cấp thấp của Mỹ sẽ học nhiều hơn so với Việt Nam, cụ thểChương trình các cấp bậc của Mỹ sẽ khác so với Việt Nam nên trước khi đi du học bạn cần chú ý cân nhắc trong việc chọn trường và lộ trình học phù hợp. Tìm hiểu rõ về các yêu cầu tuyển sinh của trường bạn muốn đăng ký vì mỗi trường sẽ có những yêu cầu khác Mỹ là quốc gia luôn coi trọng quyền dân chủ và hướng tới sự tự do phát triển bản thân ngay từ các bậc học đời đầu. Bạn sẽ được rèn luyện tính kỉ luật và phát triển tư duy tự do sáng tạo. Giúp cho mỗi học viên dễ dàng thích nghi với văn hóa và cuộc sống đa dạng không bị gò bó theo khuôn khổ. Luôn khuyến khích tạo mọi điều kiện cho học viên trải nghiệm thực tế và phát triển theo năng khiếu của Việt Nam, thông thường sẽ hướng tới thành tích điểm số cao cho mỗi cấp bậc. Nhà trường và bậc phụ huynh đưa ra những khuôn khổ mà học sinh phải làm theo sự sắp xếp có sẳn. Dẫn tới việc các bạn thụ động không phát triển khả năng tư duy sáng về phương pháp giảng dạy của Mỹ sẽ khác khá nhiều ở Việt Nam, nhưng chương trình giảng dạy thì không khác nhau nhiều. Cụ thểGiáo viên, giảng viên ở Mỹ đều được đào tạo chuyên nghiệp, có trình độ nghiệp vụ sư phạm cao. Luôn đưa ra các hướng giải quyết, khuyến khích học sinh đưa ra những quan điểm cá nhân tự tin phát biểu theo cảm nghĩ của mình trước đám đông. Mỗi tuần, học sinh sẽ có 2 – 4 tiếng để giải đáp các thắc mắc về bài học tại văn phòng giáo viên. Đối với các bậc cấp cao như cao đẳng, đại học và sau đại học sinh viên sẽ tự tìm tòi kiến thức trên website sau đó sẽ được giảng viên hướng dẫn mỗi giờ lên lớp. Trong 2 năm đầu, sinh viên có thể học song ngành hoặc có thể thay đổi ngành hcọ dù đã được đăng ký từ trước. Sinh viên sẽ tự chủ động đăng kí lên lịch thời khóa biểu cho mình và có thể đăng ký học giảng viên mà mình yêu thích. Ở Việt Nam không chú trọng vào việc thúc đẩy các bạn học sinh sinh viên tham gia hoạt động ngoại khóa. Tuy nhiên, ở Mỹ cực kỳ chú trọng đến sự phát triển của con người. Nên bạn sẽ rất dễ thấy các trường luôn đưa ra các hoạt động ngoại khóa ưu tiên hàng đầu. Thông qua các hoạt động ngoại khóa, giáo viên có thể phát hiện được những tố chất thật sự của mỗi học viên. Từ đó đưa ra những định hướng, động viên và hỗ trợ các bạn phát huy những sở thích và tố chất của mình. Bạn sẽ thường được nghe và dạy cách để tìm kiếm một công việc tốt khi còn ngồi trên ghế nhà trường ở Việt Nam. Nhưng ở Mỹ họ sẽ dạy cho bạn cách làm chủ cuộc đời, làm chủ bản thân. Phát triển những điểm mạnh, điểm giỏi của mình, từ đó mình mới làm công việc yêu thích và phát triển sự nghiệp vững vàng. Vậy hoạt động ngoại khóa của Mỹ và Việt nam sẽ khác nhau như thế nào, cụ thểĐúc kết lại sự so sánh hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam sẽ có khá nhiều sự chênh lệch khác nhau vì mỗi nền văn hóa mỗi nước sẽ khác nhau. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan và thực tế thì nền văn hóa giáo dục Việt Nam cần tiếp thu và học tập rất nhiều từ các nền văn hóa trên thế giới. Hi vọng bài viết trên sẽ giúp bạn có một cái nhìn bao quát hơn và nếu như bạn yêu thích cách giáo dục của Mỹ thì hãy chuẩn bị ngay từ bây giờ cho việc du học Mỹ nhé. Cần hỗ trợ tư vấn thêm các thông tin chương trình học cũng như học bổng du học Mỹ hãy liên hệ ngay với Việt Phương Edu nhé. Theo báo cáo hàng năm Open Doors của Viện Giáo dục Quốc tế IIE, số lượng du học sinh Việt Nam bậc đại học tại Hoa Kỳ tăng 18 năm liên tiếp, đóng góp gần 1 tỷ đô la cho nền kinh tế Mỹ. Đây là nền tảng cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ của học sinh sinh viên Việt Nam đến hệ thống giáo dục của Mỹ. Liệu điều này có xuất phát từ sự khác biệt trong hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam không? Trong bài viết này, SunUni Junior sẽ phân tích rõ hơn về sự khác biệt và giải thích lý do vì sao nhiều gia đình muốn cho con mình đến Mỹ du học nhiều hơn. Bài viết tập trung phân tích các trường công lập và tư thục tại Việt Nam theo chương trình giảng dạy của Việt Nam hơn là các trường quốc tế. Xuất phát từ nguyên nhân cách giảng dạy tại các trường quốc tế ở Việt Nam gần hơn với giáo dục của Mỹ hơn là các trường theo chương trình giảng dạy của Việt Nam. Tổng quan về hệ thống giáo dục Mỹ Trước khi bắt đầu chương trình giáo dục bậc cao, trẻ em tại Mỹ sẽ học Tiểu học và Trung học tổng cộng là 12 năm, được chia thành các bậc từ lớp 1 đến lớp 12. Khoảng 6 tuổi, trẻ em bắt đầu chương trình Tiểu học Elementary/Primary School, theo học khoảng 5-6 năm sau đó sẽ lên chương trình Trung học. Bậc Trung học Secondary School bao gồm 2 chương trình là Trung học cơ sở Middle/Junior High School và Trung học phổ thông High School. Mặc dù mỗi bang có thể áp dụng các hệ thống và chương trình giáo dục khác nhau nhưng mỗi bang đều cần đảm bảo 12 năm giáo dục bắt buộc. Mốc thời gian 12 năm là tương tự với Việt Nam. Xem thêm Những điều ba mẹ cần biết về hệ thống giáo dục Mỹ Tổng quan về hệ thống giáo dục Việt Nam Ở Việt Nam, hệ thống giáo dục phổ thông bao gồm Lớp Mẫu giáo cho trẻ từ 3- 6 tuổi Chương trình Tiểu học bao gồm 5 lớp từ lớp 1-5 Chương trình Trung học cơ sở bao gồm 4 lớp từ lớp 6-9 Chương trình Trung học phổ thông bao gồm 3 lớp từ lớp 10-12 Học sinh sẽ cần hoàn thành chương trình phổ thông gồm 12 năm giáo dục trước khi vào Cấp Đại học gồm Đại học và Cao đẳng. So sánh sự khác biệt trong hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam 1 – Thời gian học Tại Mỹ, thời gian học ở các bậc học là Tiểu học 5 năm; Trung học cơ sở 3 năm; Trung học phổ thông 4 năm; Cao đẳng cộng đồng 2 năm; Đại học 4 năm; Thạc sĩ 2 năm; Tiến sĩ ít nhất 4 năm. Trong khi đó, thời gian học ở Việt Nam là Tiểu học 5 năm; Trung học cơ sở 4 năm; Trung học phổ thông 3 năm; Cao đẳng 3 năm; Đại học 4 – 6 năm; Thạc sĩ 2 năm. Nhìn chung, khi so sánh sự khác biệt trong hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam, thời gian học tại các cấp là tương tự nhau. 2 – Phong cách giảng dạy Mặc dù những năm gần đây đã có những cải tiến. Tuy nhiên tại Việt Nam, trọng tâm giảng dạy là chú tâm truyền đạt lý thuyết hơn là việc thảo luận trên lớp. Điều này có thể xuất phát từ quy mô sĩ số lớp học lớn từ 30-40 học viên, hầu hết là tại các trường công lập nên học sinh ít chủ động tương tác và đặt câu hỏi với giáo viên. Giáo viên Việt Nam cũng tập trung nhiều vào việc giảng dạy dựa trên sách giáo khoa bởi tính chất 1 số kì thi. Học sinh cũng hay được yêu cầu ghi nhớ các khái niệm, cấu trúc trong sách hoặc tài liệu. Trong khi đó ở Mỹ, bên cạnh việc dạy bài mới, giáo viên thường khuyến khích và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham gia và thảo luận trong lớp. Học sinh lắng nghe giáo viên nhưng cũng chủ động nói lên ý kiến ​và thảo luận các câu hỏi với giáo viên. Các em cũng có cơ hội mang kiến ​​thức trên lớp vào thực tế thông qua việc thực hiện các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm hoặc tham gia các chuyến đi thực tế. Ở các trường tư thục của Mỹ, sĩ số lớp học có thể chỉ là 10 học sinh. Quy mô lớp học nhỏ cũng góp phần cho phép học sinh tham gia nhiều hơn vào các bài học. Dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về mỗi chủ đề. Ngoài ra, trong các trường học ở Mỹ, giáo viên sẽ tích hợp tin tức thời sự vào chương trình giảng dạy nếu có thể. Học sinh cũng được khuyến khích thu thập tin tức để thảo luận trong các lớp học liên quan. 3 – Môn học và hoạt động ngoại khóa nói chung Trong chương trình giảng dạy tiếng Việt, học sinh bắt buộc phải học ba môn chính gồm Tiếng Anh hoặc các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh như tiếng Nhật, tiếng Pháp,… tùy vào chương trình của trường, Văn học Việt Nam và Toán cùng với 3 môn học thuộc khối Khoa học Tự nhiên và 3 môn học thuộc khối Khoa học Xã hội. Tùy theo các con chọn lựa khối nào, các con sẽ thi thêm Khoa học Tự nhiên Vật lý, Sinh học, Hóa học hoặc Khoa học Xã hội Địa lý, Lịch sử, Giáo dục Công dân phục vụ cho kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia. Do cường độ học tập của từng môn và độ khó của đề kiểm tra, đặc biệt là các kỳ thi tuyển sinh đầu vào cấp 2, cấp 3, đại học nên học sinh thường xuyên tham gia các lớp học thêm thêm ngoài giờ để hoàn thiện hơn kiến thức. Vì vậy, sinh viên thường không có thời gian để phát triển các kỹ năng mềm và tài năng cá nhân. Một số trường cung cấp các lớp Biểu diễn Nghệ thuật và Thể thao cho học sinh và yêu cầu chúng phải có. Song, các lớp học không đa dạng. Ngược lại, nếu so sánh với hệ thống giáo dục Mỹ thì học sinh Mỹ có nhiều lựa chọn lớp học với các trình độ khác nhau. Phù hợp với chuyên môn và sở thích của của các con. Học sinh ở Mỹ cũng được yêu cầu học ít nhất một năm mỗi môn Nghệ thuật Nghệ thuật Thị giác/Nghệ thuật Biểu diễn và Thể thao. Cho con cơ hội khám phá thêm tài năng cá nhân hoặc nâng cao kỹ năng của mình. 4 – Kiểm tra Tại Việt Nam, điểm là cách đánh giá kết quả của học sinh sau khi kết thúc một lớp học. Điểm đến từ bài tập về nhà, kiểm tra miệng đầu giờ, bài kiểm tra hàng tháng, và bài kiểm tra giữa kỳ và cuối kỳ. Nhìn chung, không có nhiều phản hồi của giáo viên cung cấp thông tin cho gia đình về kết quả học tập của học sinh trong lớp ngoài điểm số. Giáo viên thường chỉ phản hồi cho học sinh thông qua báo cáo của trường vào cuối năm học. Điều này đã tạo ra nhận thức và áp lực từ phía gia đình và học sinh trong việc đạt điểm cao ở trường. Với các bài học mới được dạy mỗi kỳ và độ khó của các kỳ thi, như đã thảo luận trước đó, các con cảm thấy áp lực khi đi học thêm ngoài giờ học để ghi nhớ bài tốt hơn và thực hành nhiều hơn. 5 – Các kỳ thi Ở Việt Nam vào cuối cấp 2, các con học sinh lớp 9 cần tham gia Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT. Kỳ thi gồm bài thi Toán, Ngữ Văn và 1 bài thi được chọn ngẫu nhiên. Đề thi ngẫu nhiên sẽ được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố trong tháng 3. Bài kiểm tra Ngôn ngữ các con có thể chọn trong số tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật và Hàn. Hệ thống kiểm tra này khác nhau tùy thuộc các vùng và cách tính điểm cũng khác. Ở lớp 12, học sinh phải tham dự Kỳ thi THPT Quốc gia. Đủ điều kiện vừa là kỳ thi tốt nghiệp vừa là kỳ thi vào đại học. Học sinh phải dự thi ít nhất 4 bài thi. Bao gồm 6 môn học Toán, Tiếng Anh, Ngữ văn, Tổ hợp Khoa học Tự nhiên hoặc Tổ hợp Khoa học Xã hội một bài thi tích hợp bao gồm Lịch sử, Địa lý và Giáo dục công dân. Điểm này này cho phép học sinh lựa chọn trường và ngành học của mình. Mỗi chuyên ngành khác nhau của mỗi trường cao đẳng tại Việt Nam có một mức điểm chuẩn khác nhau. Hệ thống kiểm tra này có sự khác biệt đáng kể so với các trường học ở Mỹ. Ở Mỹ, hầu hết các trường đánh giá thành tích dựa trên nhiều yếu tố khác nhau. Có thể kể đến như tham gia lớp học, các câu đố, bài tập về nhà và bài kiểm tra cuối khóa,… ngoài bài kiểm tra cuối khóa. Học sinh cũng có cơ hội kiếm thêm tín chỉ để nâng cao điểm trung bình GPA của mình. Về việc nhập học vào trường học và đại học ở Mỹ, điểm thi tiêu chuẩn của SSAT, SCT và/hoặc ACT sẽ được xem xét. Gần đây, hầu hết đã trở thành bài thi không bắt buộc tại các trường học và cao đẳng. Do đó, các cán bộ tuyển sinh đánh giá học sinh dựa trên thư giới thiệu của giáo viên, phát biểu cá nhân, tham gia các hoạt động ngoại khóa, thể hiện sự quan tâm và “sự phù hợp” của các con với trường. 6 – Công nghệ dạy học Ở Việt Nam, chỉ một số trường công lập và tư thục thường xuyên dùng máy để trình chiếu. Viết trên bảng đen vẫn là phương pháp phổ thông nhất. Trong khi đó, so sánh với hệ thống giáo dục tại Mỹ, nơi công nghệ giáo dục như Google Slides, PowerPoint Presentation, máy chiếu và bảng trắng kỹ thuật số được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, thảo luận, giải câu hỏi. Ngoài ra, các trường học ở Hoa Kỳ thường triển khai Hệ thống quản lý học tập LMS – Learning Management Systems hoặc dùng LMS khác như Canvas, Moodle, Google Classroom,… Tổng kết Nhìn chung khi so sánh hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam, ta có thể thấy Giáo dục Việt Nam tập trung vào thành tích và điểm số hơn hệ thống giáo dục Mỹ. Điều này xuất phát bởi nhiều yếu tố hoặc quan niệm. Các bậc cha mẹ Việt Nam hơi khắt khe về mặt kỳ vọng nếu nói đến lĩnh vực học tập. Hệ thống giáo dục Mỹ tập trung nhiều hơn vào việc đạt được nền giáo dục toàn diện. Tạo ra nơi học sinh có thể được trang bị kiến ​​thức tốt nhất có thể. Đồng thời phát triển tài năng cá nhân và các kỹ năng cần thiết cho tương lai của các con. Tuy nhiên, dấu hiệu tốt là Phụ huynh Việt Nam đã ngày càng cởi mở hơn. Với tình hình đại dịch COVID-19, các trường học cũng đã triển khai được các công nghệ học tập từ xa tiên tiến trong khi học sinh được yêu cầu thực hành cách xa xã hội. Vậy nên chắc chắn 1 điều là sau đại dịch, giáo viên sẽ có nhiều khả năng ứng dụng công nghệ vào phương pháp giảng dạy của mình hơn. Nhìn chung, đây là thực trạng đáng mừng khi nhận thấy những thay đổi trong tương lai của nền giáo dục Việt Nam với sự tích hợp các tư tưởng giáo dục từ các nước phương Tây. Theo Giáo dụcTin tức Thứ hai, 20/1/2020, 1215 GMT+7 Sinh viên đánh giá các trường phương Tây giúp họ tương tác tốt với giảng viên trong khi đại học ở Nhật lại không làm tốt điều này. Đầu năm 2020, Times Higher Education THE công bố và phân tích kết quả khảo sát giáo dục đại học ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản dựa trên phản hồi của hàng trăm nghìn sinh viên cho bảy câu hỏi về các vấn đề như việc nhà trường hỗ trợ phát triển tư duy phản biện, hỗ trợ giảng dạy, tạo mối liên hệ, cơ hội tiếp xúc với giảng viên, cơ hội hợp tác, thách thức với sinh viên hay việc áp dụng kiến thức vào thực tế. Khoảng sinh viên đang học tập tại Mỹ, sinh viên ở châu Âu và ở Nhật Bản đã tham gia trả lời. Kết quả cho thấy sinh viên ở ba nơi có những trải nghiệm rất khác biệt. Ví dụ, với câu hỏi nhà trường cung cấp cơ hội học tập, hợp tác ra sao và những thách thức trong lớp học ở mức độ nào, sinh viên Mỹ đánh giá các trường đạt điểm trung bình là 8,2 trên thang 10. Trong khi đó, sinh viên ở Nhật Bản không nhận được nhiều cơ hội và họ chỉ cho trung bình 6,4 điểm. Sinh viên ở châu Âu đánh giá 7,3 điểm. Nhìn rộng ra, dữ liệu cho thấy những điểm mạnh, điểm yếu của các hệ thống giáo dục đại học. Chẳng hạn, sinh viên ở châu Âu và Mỹ thường cho điểm cao khi nói đến cơ hội được tiếp xúc với giảng viên và nhân viên, nhưng lại đánh giá các trường của họ kém hơn nhiều về việc áp dụng các bài giảng vào thế giới thực. Ngược lại, sinh viên Nhật Bản cho điểm trung bình cao nhất ở việc áp dụng kiến thức vào thực tế, nhưng lại đánh giá thấp việc các trường hỗ trợ họ phát triển tư duy phê phán. Du học sinh tại Mỹ. Ảnh Shutterstock Anne Colby, giáo sư kiêm nhiệm Adjunct Professor ở trường Giáo dục thuộc Đại học Stanford Mỹ, cho biết khảo sát ở Mỹ phù hợp với những nghiên cứu trước đây. Nó cho thấy đại học Mỹ có xu hướng làm khá tốt trong việc cung cấp các buổi seminar, cơ hội để sinh viên tương tác với giảng viên, có cố vấn bên ngoài lớp học và các dự án hợp tác giữa giảng viên và sinh viên. Kiyomi Horiuchi, trợ lý nghiên cứu tại Viện nghiên cứu giáo dục đại học của Đại học Hiroshima Nhật Bản, lý giải mức độ hài lòng tương đối cao của sinh viên Nhật Bản về việc ứng dụng những gì được học vào thực tế có liên quan đến sự phát triển trong các lĩnh vực nghiên cứu thực tế như điều dưỡng, trị liệu, ở quốc gia này. Những ngành học này rất phổ biến và được nhiều phụ huynh, học sinh định hướng vì có cơ hội việc làm cao hơn và nếu theo học sẽ dễ hình dung hơn khi áp dụng kiến thức vào thực tế. Trong khi đó, đại học Nhật Bản bị đánh giá thấp về tư duy phê phán và tạo mối quan hệ. Ông Horiuchi cho biết điều này xuất phát từ việc tập trung vào bài giảng một chiều của giáo dục từ bậc tiểu học đến đại học, cũng như thực tế có rất ít sự hợp tác giữa các bộ phận riêng lẻ tại các trường đại học. Mặc dù Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản đang thúc giục các trường đại học cung cấp nhiều hơn lớp học theo phong cách giáo dục tích cực và liên ngành, ông Horiuchi dự đoán quá trình chuyển đổi sẽ mất thời gian. "Các kỳ thi đại học, cũng như kỳ thi định kỳ được thực hiện tại trường trung học, thường hỏi đơn giản những gì học sinh học được từ sách giáo khoa và bài giảng. Do đó, sinh viên có xu hướng đáp ứng điều này bằng cách chỉ tiếp thu kiến thức từ khóa học", ông Horiuchi nói và đề nghị việc giới thiệu chuyên ngành học sau này và chương trình giảng dạy cần linh hoạt hơn để sinh viên có thể thực hiện các khóa học bên ngoài ngành của họ, giúp giải quyết điểm yếu nhận thức. Thomas Brotherhood, nghiên cứu sinh tại Đại học Oxford và Trung tâm Giáo dục đại học toàn cầu, người đã nghiên cứu ở cả Vương quốc Anh và Nhật Bản, nhấn mạnh dù là đại học ở đâu, việc cung cấp cho sinh viên thời gian nghỉ ngơi, cho họ cơ hội tham gia vào nhiều hoạt động xã hội hơn và cung cấp một môi trường giáo dục phù hợp với kỳ vọng của cả sinh viên và người sử dụng lao động trong tương lai đều quan trọng. Dương Tâm Theo THE

so sánh giáo dục việt nam và mỹ